CHÈ TÔ MÚA – CHÈ CỔ THỤ MỘC CHÂU ĐÃ ĐI VÀO THƠ CA THẾ NÀO???

MỤC LỤC

Ý nghĩa câu nói “Gái Mường Tè, chè Tô Múa”

Câu nói “Gái Mường Tè, chè Tô Múa, lúa Tú Nang, hàng Song Khủa” là một câu ca địa phương nổi tiếng ở vùng Châu Mộc xưa (Mộc Châu, Sơn La). Câu ca này liệt kê những “đặc sản” tiêu biểu của vùng, trong đó “Gái Mường Tè” ý chỉ phụ nữ đẹp người ở xã Mường Tè (một xã ven sông Đà thuộc Mộc Châu) và “chè Tô Múa” ám chỉ chè shan tuyết cổ thụ thơm ngon ở xã Tô Múa. Câu nói thường được người dân địa phương truyền miệng nhằm quảng bá các sản vật và nét đẹp nổi bật của quê hương mình.Mặc dù không phổ biến rộng rãi như tục ngữ ca dao toàn quốc, câu ca này rất quen thuộc trong vùng Mộc Châu – Vân Hồ, thường được nhắc đến khi giới thiệu đặc sản địa phương hoặc trong những lời mời chào khách phương xa. Nội dung câu nói ca ngợi con gái Mường Tè da trắng xinh đẹp và chè Tô Múa thơm ngon nức tiếng, bên cạnh đó là lúa nếp ngon ở Tú NangChợ phiên ven sông ở Song Khủa – tất cả tạo nên niềm tự hào của người dân vùng cao Tây Bắc

Vùng chè Tô Múa – vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên

Tô Múa hiện nay thuộc xã Tô Múa, tỉnh Sơn La (trước đây là một phần của huyện Mộc Châu, sau là huyện Vân Hồ). Vùng này nằm trên địa hình cao khoảng 1.000 – 1.200m so với mực nước biển, có khí hậu mát mẻ quanh năm, với sương mù và mây phủ gần như thường xuyên trên các cánh rừng. Tên gọi “Tô Múa” bắt nguồn từ tiếng Thái “tò mua”, nghĩa là “vùng đất trông chờ, vùng đất dễ làm ăn”, hàm ý nơi đây đất đai màu mỡ, khí hậu thuận lợi trồng cây gì cũng tốt. Thực tế đã chứng minh điều đó khi cây chè Shan tuyết (chè cổ thụ) bén rễ trên đất Tô Múa từ hàng trăm năm trước và phát triển tươi tốt.

Được rừng già bao bọc và hưởng lợi từ sự chênh lệch nhiệt độ ngày đêm lớn, những đồi chè Tô Múa phủ xanh triền núi quanh năm, tạo cảnh quan hùng vĩ và thơ mộng cho vùng đất này. Toàn xã Tô Múa hiện có hơn 640 ha chè (tính cả chè cổ thụ và chè trồng), trải dài khắp 12 bản và 1 tiểu khu, chiếm gần một nửa diện tích đất sản xuất của xã Nhờ điều kiện tự nhiên ưu đãi, cây chè phát triển thành cây trồng chủ lực, người dân địa phương chủ yếu canh tác chè bên cạnh ngô và dong riềng. Hàng năm, vùng chè Tô Múa cung cấp sản lượng lớn chè búp tươi (ước tính khoảng 15.000 tấn/năm gần đây), góp phần đưa nơi đây trở thành một điểm đến đặc biệt trên bản đồ chè Shan tuyết Tây Bắc

Đặc điểm chè cổ thụ Tô Múa (giống, tuổi đời, canh tác và chế biến)

chè tô múa
chè tua múa


Người dân giới thiệu cây chè Shan tuyết cổ thụ ở Tô Múa với thân cành xù xì phủ rêu mốc, cao khoảng 2–3 m sau hàng trăm năm tuổi – muốn thu hái búp chè, họ phải trèo lên cây hoặc bắc thang.

Giống chè: Chè cổ thụ Tô Múa thuộc giống Shan tuyết lá to, có nguồn gốc xa xưa từ vùng núi Vân Nam – Trung Quốc, được các bậc tiền nhân người Thái di thực từ Đà Bắc (Hòa Bình) về trồng trên đất Mộc Châu khoảng 5–6 đời nay. Đặc trưng của giống chè này là búp chè lớn, mập, phủ đầy lông tơ trắng mịn như tuyết, mặt dưới lá cũng có một lớp lông mỏng. Thân cây khi già nhiều năm trở nên mốc trắng rêu phong, tán cây rộng và cành lá vươn cao đón sương gió đại ngàn. Tại Tô Múa, qua khảo sát thống kê, hiện còn trên 2.100 cây chè cổ thụ phân bố trong rừng tại các bản như Khảm, Pàn Ngùa, Suối Liếm, Lắc Mường và Cho Đáy – nhiều cây đã đạt tuổi đời trên 200 năm, thậm chí có cây gần 300 năm tuổi. Những “cụ chè” này được coi là tài sản di sản quý giá truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác trong cộng đồng người Thái nơi đây, được bà con gìn giữ bảo vệ qua thời gian. Năm 2022, có 105 cây chè cổ thụ tiêu biểu ở bản Pàn Ngùa và Cho Đáy đã được vinh danh “Cây di sản Việt Nam” – điều này không chỉ khẳng định giá trị sinh thái, văn hóa, lịch sử của cây chè Tô Múa, mà còn tạo tiền đề phát triển du lịch trải nghiệm gắn với văn hóa trà độc đáo của vùng.

Canh tác và thu hái: Chè shan tuyết Tô Múa đa phần mọc tự nhiên dưới tán rừng, sinh trưởng chậm nhưng tích lũy đậm đà “chất chè” nhờ thổ nhưỡng phì nhiêu và khí hậu trong lành. Trước đây, người dân không trồng chè thành luống như chè đồng bằng mà để cây mọc tự nhiên, chỉ phát quang cỏ dại xung quanh gốc để thu hoạch. Ngày nay, ngoài khu rừng chè cổ thụ, bà con cũng nhân giống và trồng mở rộng thêm nhiều diện tích chè Shan trên nương đồi, kết hợp ứng dụng khoa học kỹ thuật chăm sóc theo hướng hữu cơ, VietGAP nhằm tăng năng suất và chất lượng. Mỗi năm chè Tô Múa có thể cho thu hoạch từ 5–6 lứa, tùy theo mùa vụ và kỹ thuật canh tác. Đối với những cây chè cổ thụ cao lớn, việc thu hái khá vất vả: người hái chè phải leo lên thân cây hoặc bắc thang mới với tới những búp chè non trên cao. Tiêu chuẩn hái thường là “một tôm hai lá” (một búp và hai lá non liền kề) để đảm bảo chất lượng chè tốt nhất. Mỗi cây chè cổ thụ to có thể cho tới khoảng 1–2 kg búp tươi trong một đợt hái nhờ tán rộng và nhiều mầm búp.

Phương pháp chế biến: Người dân Tô Múa từ xưa đến nay vẫn giữ những bí quyết thủ công truyền thống trong chế biến chè. Ngay sau khi hái, búp chè tươi được đem sao (rang) trong chảo gang trên bếp lửa nhỏ, đảo bằng tay trần liên tục để làm héo chè một cách cảm nhận nhiệt độ chính xác. Kế đó, chè được vò bằng tay cho xoăn lại nhưng không làm nát lá và giữ được lớp lông tuyết trên cánh chè. Tiếp tục sao khô cho đến khi cánh chè săn nhỏ bằng hạt đậu xanh, rồi công đoạn “đánh hương” – sao ở nhiệt cao hơn – giúp chè dậy mùi thơm đặc trưng hoàn toàn tự nhiên. Toàn bộ quy trình không hề dùng hương liệu hay phụ gia nào; chỉ có bàn tay khéo léo, lửa than và sự kiên nhẫn của người thợ sao chè, nhờ vậy chè Tô Múa lưu giữ hương vị mộc mạc nguyên bản của núi rừng. Một số gia đình người Thái nơi đây còn lưu truyền cách sao chè bằng chảo gang trên bếp củi như thời xưa, tạo nên thành phẩm chè có mùi thơm dịu rất riêng, ban đầu uống có vị chát nhẹ rồi ngọt hậu thanh mát mà hiếm loại chè nào sánh được.

Bên cạnh chè xanh sao khô thông thường, Tô Múa còn có những biến tấu độc đáo trong chế biến chè cổ thụ. Chẳng hạn, người dân xưa kia thường ép chặt chè đã sao vào các ống nứa (giống như ống cơm lam) để bảo quản và vận chuyển dễ dàng – mỗi khi pha uống chỉ cần bẻ một đoạn chè khô trong ống là dùng được ngay. Đặc biệt, có loại “chè đung đưa” ra đời từ thói quen treo chè lên gác bếp. Theo cách này, búp chè cổ thụ sau khi sao sơ một lượt và vò nhẹ sẽ được gác trên giàn bếp, để khói bếp (trong đó có cả khói từ các loại củi, lá thuốc rừng) bám vào lá chè. Sau một thời gian “nung khói” tự nhiên, chè đung đưa trở thành một loại “chè thuốc” độc đáo, khi pha uống có thoang thoảng mùi khói bếp và thảo mộc rất riêng. Chính những phương pháp canh tác, chế biến thủ công mang đậm tri thức bản địa này đã làm nên giá trị đặc sắc cho chè Shan tuyết cổ thụ Tô Múa.

Hương vị đặc trưng của chè Tô Múa so với các vùng chè cổ thụ khác

Nhờ hội tụ những yếu tố thiên nhiên ưu việt, chè Shan tuyết Tô Múa mang một hương vị đặc trưng đậm đà khó quên. Chén chè Tô Múa khi pha có màu vàng sánh như mật ong, tỏa hương thơm dịu thanh thoát ngay từ khi còn nóng. Nhấp ngụm đầu, ta cảm nhận một vị chát nhẹ lan tỏa nơi đầu lưỡi, không hề gắt mà rất êm mềm, mở đường cho vị ngọt âm ỉ thấm sâu nơi cổ họng. Hậu vị ngọt kéo dài, lưu luyến, càng uống càng thấy vị ngọt bùi thanh mát đọng lại, cân bằng tinh tế với vị chát nhẹ như một “tỷ lệ vàng” giữa đắng và ngọt. Đặc biệt, chè Tô Múa có cái bùi béo ngậy nơi cuống họng rất riêng, hương trà như một lớp dầu mỏng vấn vương làm khoang miệng sạch sẽ, thơm tho và sảng khoái sau khi uống. Chính hương vị đượm đà, hài hòa giữa vị núi rừng hoang dã và bàn tay chế biến tài hoa đã khiến trà Tô Múa trở thành “tinh túy đất trời” khiến ai thưởng thức một lần đều nhớ mãi.

Mỗi vùng chè cổ thụ Tây Bắc đều có những nét hương vị độc đáo riêng dưới ảnh hưởng của thổ nhưỡng và văn hóa chế biến địa phương. Nếu như chè Suối Giàng (Văn Chấn, Yên Bái) nổi tiếng với hương vị thuần khiết, thanh tao – nước chè vàng óng như mật ong rừng, vị chát rất nhẹ tinh tế và hậu vị ngọt ngào kéo dài, hương thơm phảng phất mật hoa rừng quyến rũ – thì chè Tà Xùa (Bắc Yên, Sơn La) lại gây ấn tượng bởi hương khói bếp nhè nhẹ quyện trong vị trà. Trà Tà Xùa có vị chát dịu nơi đầu lưỡi, hậu ngọt sâu rất lâu, nước trà vàng trong, uống êm và không hề gắt, dư vị vương vấn nét đậm đà hoang dại của mây núi Tà Xùa. So sánh với hai “danh trà” đó, chè Tô Múa cũng mang đủ phẩm chất của một loại chè Shan tuyết thượng hạng: hậu ngọt sâu lắng, tiền vị chát nhẹ êm dịu, màu nước vàng sánh đẹp mắt. Song điều làm nên bản sắc riêng của trà Tô Múa chính là mùi thơm dịu nhẹ mà thoảng vị thảo mộc khói bếp từ cách chế biến truyền thống của người Thái, cùng với độ “đằm” đặc biệt – một sự cân bằng hoàn hảo giữa vị và hương, tạo cảm giác bùi ngậy, sảng khoái rất khác biệt khi thưởng trà. Bảng dưới đây tóm tắt một số đặc điểm sản phẩm chè cổ thụ Tô Múa so với hai vùng chè cổ thụ nổi tiếng khác là Suối Giàng và Tà Xùa:

Tiêu chí Chè Tô Múa (Vân Hồ, Sơn La) Chè Suối Giàng (Văn Chấn, Yên Bái) Chè Tà Xùa (Bắc Yên, Sơn La)
Độ cao & khí hậu ~1.000–1.200 m; khí hậu mát mẻ, nhiều sương mù, rừng già bao quanh. ~1.300–1.400 m; khí hậu ôn hòa, ngày nắng đêm lạnh, núi non hiểm trở. ~1.600–1.800 m; quanh năm mây mù bao phủ, nhiệt độ ngày đêm chênh lệch lớn.
Cây chè cổ thụ Giống Shan tuyết lá to; ~2.100 cây cổ thụ trên 5 bản, nhiều cây >200 tuổi (cây di sản ~300 tuổi). Giống Shan tuyết; ~293 ha rừng chè tự nhiên với hàng nghìn cây hàng trăm năm tuổi (có “cây chè tổ” >300 năm). Giống Shan tuyết; ~1.560 cây cổ thụ trên 40 ha, ~200 cây >300 năm (được xếp hạng di sản năm 2019).
Hương vị & màu nước Nước vàng sánh như mật ong, thơm dịu thanh thoát; vị chát nhẹ đầu lưỡi, hậu ngọt đậm đà kéo dài, cảm giác bùi ngậy, sảng khoái. Nước vàng óng ánh, hương thơm thuần khiết quyến rũ; vị chát rất nhẹ tinh tế, hậu vị ngọt ngào lâu dài, dư vị thanh mát của mật ong rừng. Nước vàng trong, hương khói bếp nhẹ quyện hương núi rừng; vị chát dịu êm ái, hậu ngọt sâu rất lâu, dư vị đậm đà độc đáo nhưng không hề gắt đắng.
Điểm đặc trưng Chế biến thủ công bởi người Thái: sao chè bằng chảo gang, trà ống lam“chè đung đưa” hun khói độc đáo; 105 cây chè được công nhận Cây di sản (2022). Đang xây dựng thương hiệu OCOP, tiềm năng gắn với du lịch văn hóa trà. Được bảo hộ chỉ dẫn địa lý “Suối Giàng” (2013); chế biến theo bí quyết người H’Mông: sao chảo bằng củi, giữ tuyết trên búp chè. Sản phẩm chè “5 cực” (cực sạch, cực hiếm, cực thơm ngon…) nức tiếng, thu hút du khách thập phương. Mệnh danh “vương quốc chè cổ thụ” của Sơn La; chè Shan tuyết Tà Xùa do người H’Mông bản địa sản xuất 100% hữu cơ. Được xếp hạng Cây di sản VN (2019), gắn liền hình ảnh săn mây Tà Xùa và văn hóa trà núi cao.

Chú thích: Mỗi vùng chè cổ thụ đều mang những tinh hoa riêng, song đều chung đặc điểm là chè mọc tự nhiên không hóa chất, tuổi thọ hàng thế kỷ, quy trình chế biến thủ công tạo nên hương vị “có một không hai”. Chè Shan tuyết cổ thụ ngày nay được xem là “đệ nhất danh trà” của Việt Nam nhờ hương vị độc đáo và lợi ích sức khỏe, được giới sành trà trong và ngoài nước săn đón.

Vai trò kinh tế và tiềm năng thị trường của chè Tô Múa

Đối với người dân Tô Múa, cây chè không chỉ là thức uống truyền thống mà còn là trụ cột kinh tế, “nhịp cầu” thoát nghèo của địa phương. Hiện nay, hơn 80% hộ dân trong xã tham gia trồng và sản xuất chè, với khoảng 640 ha chè Shan tuyết đang cho thu hoạch. Cây chè chiếm vị trí then chốt trong cơ cấu nông nghiệp, đóng góp gần một nửa diện tích canh tác của toàn xã. Nhờ đó, đời sống người dân được cải thiện rõ rệt: nhiều hộ gia đình thu nhập ổn định 70–100 triệu đồng/năm từ chè, tỷ lệ hộ nghèo giảm đáng kể. Mỗi năm, toàn xã thu hoạch khoảng 15.000 tấn chè búp tươi, cung ứng cho các doanh nghiệp chế biến; sản phẩm chè Tô Múa không chỉ tiêu thụ trong nước mà còn từng bước vươn ra thị trường quốc tế dưới thương hiệu chung chè Mộc Châu (đã xuất khẩu đến Nhật Bản, Trung Đông…). Giá trị kinh tế của cây chè đã khẳng định qua hàng chục năm: từ năm 1958, Mộc Châu đã phát triển những nông trường chè quốc doanh, đến nay Mộc Châu – Sơn La trở thành một vùng nguyên liệu chè lớn của cả nước với nhiều giống chè chất lượng cao, trong đó có dòng Shan tuyết cổ thụ quý giá.

Nhận thấy tiềm năng đặc biệt của chè Tô Múa, chính quyền địa phương đã đề ra chiến lược phát triển bền vững gắn với xây dựng thương hiệu. Xã đã thành lập các hợp tác xã liên kết người trồng chè với doanh nghiệp, đảm bảo đầu ra ổn định và nâng cao chuỗi giá trị. Đồng thời, bà con được tập huấn sản xuất chè an toàn, theo tiêu chuẩn VietGAP, tăng cường cơ giới hóa khâu thu hái và chế biến, nâng cao năng suất nhưng vẫn giữ chất lượng. Địa phương cũng đang hoàn thiện hồ sơ đưa chè Shan tuyết Tô Múa trở thành sản phẩm OCOP (mỗi xã một sản phẩm) đặc trưng và sản phẩm công nghiệp nông thôn tiêu biểu của tỉnh. Việc 105 cây chè cổ thụ được công nhận Cây di sản càng làm tăng giá trị thương hiệu cho chè Tô Múa, đồng thời mở hướng phát triển du lịch trải nghiệm: du khách có thể đến thăm “rừng chè di sản”, tận mắt thấy những gốc chè vài trăm tuổi và thưởng thức chén trà Shan tuyết giữa không gian núi rừng tĩnh lặng – một trải nghiệm độc đáo không dễ có được.

Trong tương lai, chè Tô Múa được kỳ vọng sẽ vươn xa trên thị trường cao cấp, ghi danh vào bản đồ những danh trà quý hiếm của Việt Nam và thế giới. Sự kết hợp giữa giá trị kinh tế và giá trị văn hóa – lịch sử làm nên sức hấp dẫn đặc biệt của sản phẩm này. Với định hướng đúng đắn và nỗ lực chung của cộng đồng, chè Shan tuyết Tô Múa hoàn toàn có khả năng trở thành “át chủ bài” trong phát triển kinh tế vùng cao Vân Hồ, vừa mang lại thu nhập bền vững cho người dân, vừa quảng bá hình ảnh Tây Bắc qua những chén trà đượm hương vị núi rừng.

 

Trang Chủ Danh mục Giỏ Hàng
0899168266
icons8-exercise-96 challenges-icon chat-active-icon